Polaroid
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  VƯƠNG QUỐC NHỮNG KẺ LẠ MẶT


Phan_8

Chương 14

Kỳ nghỉ cuối tuần thứ Năm và thứ Sáu trôi qua đằng đẵng khổ đau. Ibrahim đến chỗ làm vào sáng thứ Bảy, ngay sau lễ cầu nguyện Fajr, khi tòa nhà hầu như vẫn còn vắng vẻ. Ông định sẽ giải quyết đống hồ sơ trên bàn mình. Ông nhận thấy Omar đã gửi đến các hồ sơ của Warra ở Đội Điệp vụ. Chắc hẳn chúng đã được chuyển đến sau khi ông rời văn phòng ngày thứ Tư. Tất cả đều được bọc giấy và nhét trong túi nhựa chuyển hàng có để nhãn CÁC VỤ ÁN ĐÃ ĐÓNG và ĐỘI TRỌNG ÁN nhằm tránh sự chú ý. Ibrahim xé mở túi thư và dành cả buổi sáng để đọc các túi hồ sơ.

Có một câu chuyện vui ở Đội Điệp vụ rằng nếu bạn điều tra một vụ án và không tình cờ gặp ai đó có họ hàng xa nhận ra bạn trong đám cưới ông chú người hàng xóm của bạn, thì chắc là bạn đã dành hết thời gian thủ dâm ở tận ngoài sa mạc. Đội có quá nhiều nhân viên giả trang bị lật mặt đến mức đã có lúc họ chỉ có thể thuê người ở các thành phố khác, và thậm chí sau đó phải tuyển người từ phía nam bởi dù Jeddah có trở nên rộng lớn đến mức nào đi nữa, thì những chàng trai của đội dường như không thể nào đụng mặt với người quen.

Ibrahim chỉ định xem qua những thứ này, và ông ngờ phần lớn các trường hợp đều chỉ là không may. Nhưng ý thức về sự đàn áp đi cùng với một loạt vận rủi đã khiến ông quay cuồng mất một lúc, đủ để đi đến một ý tưởng xuẩn ngốc cho một hành động mà, như ông nghi ngờ, sẽ không bao giờ thành công cho dù có được sự đồng thuận của Chánh Thanh tra phụ trách Đội Điệp vụ. Họ nên thâm nhập vào mạng lưới những kẻ cắp là nữ giới.

Ibrahim và hai sĩ quan cấp dưới của Đội Điệp vụ hiển nhiên là đã gặp rắc rối khi trình bày ý tưởng đó với Chánh Thanh tra. Ngay cả khi họ đã thuyết phục được ông ta rằng thực chất có một mạng lưới những phụ nữ giàu có hành động cùng nhau để lấy cắp hàng xa xỉ phẩm tại các cửa hàng cao cấp (vòng tay kim cương là một mặt hàng được ưa thích), họ đã phải mất hàng tuần liền để tìm ra đâu là một phương thức hành động khả thi. Họ sẽ thâm nhập vào mạng lưới đó, thu thập đủ bằng chứng, và rồi - sao chứ? Tống giam một loạt phụ nữ giàu có hay sao? Quá nửa trong bọn họ sẽ mang thai bất cứ lúc nào. Không một người nào có ít hơn bốn đứa con. Phần lớn đã kết hôn với những gã ngu đần thuộc tầng lớp thượng - trung lưu, vốn luôn cho rằng tất cả áo quần và đồ trang sức mà vợ họ đang chưng diện lẽ dĩ nhiên là được chi trả nhờ khả năng kiếm tiền của chính bọn họ, những kẻ có mức lương cấp cao sẵn sàng trải thảm ở Milan. Bọn họ không nhận ra rằng các bà vợ không ăn cắp vì nghèo, các bà đó ăn cắp vì họ tức giận, họ không có quyền lực và có lẽ họ bị đàn áp.

Khi Ibrahim mới đưa ra gợi ý này cho Chánh Thanh tra, ông ta đã rất trầm ngâm. Rồi ông ta nhìn Ibrahim như thể ông ta vừa đặt một cục phân ngựa khổng lồ lên bàn làm việc của ông ta và cố gắng đẩy nó cho ông ta như một nghi lễ chào đón của người Bedouin. Và ngay lập tức Ibrahim nhận ra ông ta đang nghĩ: không đời nào chúng ta lại bắt một đoàn những bà mẹ giàu có đó.

Người ta nhanh chóng chỉ ra rằng họ luôn luôn có thể bắt giữ mấy ông chồng thay vì các bà vợ. Chẳng có ai ngạc nhiên nếu họ bắt những người chồng đó phải chịu trách nhiệm về hành vi của vợ mình. Sự căng thẳng trong căn phòng có bớt đi chút ít. Ai đó đã tếu rằng bọn họ sẽ có thể cứu được những bà mẹ nghèo khó này từ tay những gã chồng ngu ngốc. Đội của bọn họ sẽ giống như những đơn vị chống bạo hành gia đình ở những quốc gia khác, một kiểu cơ quan mà Jeddah đang nỗ lực để thiết lập và có phần vờ như là đã có, nếu các chính trị gia là những người có thể tin được.

Ban đầu ông Chánh Thanh tra đã không muốn động chạm gì đến mạng lưới này. “Quay trở lại với mấy cái vụ ma túy của các anh đi.” Nhưng họ đã tiếp tục tác động đến ông ta, chọn những thời điểm dễ thuyết phục nhất, bởi họ đã ngán ngẩm ma túy lắm rồi. Và có thể họ sẽ không bao giờ thừa nhận điều này, nhưng họ thích thử thách đó. Xâm nhập một mạng lưới phụ nữ khép kín.

Cuối cùng thì ông Chánh Thanh tra cũng đã ưng thuận. Thậm chí ông ta còn bị ấn tượng bởi vụ đánh cắp kim cương trị giá ba trăm nghìn riyal giữa ban ngày ban mặt tại trung tâm Vàng bạc al-Tahlia. Những người phụ nữ này rõ ràng đã theo dõi hệ thống an ninh của cửa hàng đó. Bọn họ biết cách để đánh lạc hướng các nữ bảo vệ và cách vào được khu trưng bày. Và bọn họ đã thực hiện vụ đánh cắp mà không màng gì đến sự hiện diện của cả tiểu đoàn máy quay phim liên tục hoạt động ngay cả khi cửa hàng đóng cửa. Tại sao? Bởi vì họ che mặt, cơ thể thì giấu kín trong những chiếc áo trùm màu đen bùng nhùng.

Một trong những kỹ thuật viên đã gợi ý họ thử một loại chương trình phần mềm mới - Lột trần - có thể tước bỏ quần áo trên cơ thể người theo phương thức kỹ thuật số và đôi khi có khả năng đặt một khuôn mặt dưới dạng không có khăn trùm đầu. Nhưng không lâu sau khi anh chàng đưa ra gợi ý đó thì chương trình này bị cấm bởi một sỹ quan cấp trên, người đã tá hỏa về việc đàn ông lột bỏ trang phục của phụ nữ bằng máy vi tính và kêu gọi luật pháp chống lại điều đó.

Có vẻ như nhóm trộm cắp này gồm sáu phụ nữ, nhưng rất khó nói bởi họ luôn luôn mang khăn trùm đầu. Và dường như bất khả thi để bắt giữ một phụ nữ nếu chồng của cô ta không xuất hiện và không sẵn lòng giúp truy tìm cô ta. Cách duy nhất mà họ có thể kết tội những phụ nữ này là thu thập các chứng cứ phạm tội từ những phụ nữ khác - bạn bè hoặc thành viên gia đình. Điều họ cần là phải vào được nhà của những phụ nữ đó, xâm nhập vào đời sống và những bí mật của bọn họ, và cách duy nhất để thực hiện được điều này là cài vào gia đình đó một người giúp việc. Họ có lực lượng nữ quân nhân, nhưng rất ít người châu Á và người nhập cư - những nhóm tộc người có thể được chấp nhận vào vị trí người giúp việc. Người duy nhất phù hợp lúc bấy giờ chính là Sabria.

Những hồ sơ Omar gửi là vào khoảng thời gian Sabria hoạt động trong Đội Điệp vụ trước khi cô phá được mạng lưới trộm cắp đó. Và tất cả những gì cô đã nói về các vụ án đó đều đúng, không có gì bất bình thường hết. Và rõ ràng là cũng không có gì Ibrahim liên hệ được với sự mất tích của cô cả.

Với vụ trộm cắp tại các cửa hiệu đó, Sabria đã làm tay trong trong vòng bốn tháng, và cô đã thực hiện vai trò của một người giúp việc xuất sắc rồi trở thành bạn tốt của gia đình đó đến mức ngay cả khi người mẹ trong gia đình đó, Salima, bị bắt giam và được cho biết bà ta đã bị gài bẫy như thế nào, bà ta vẫn từ chối không nói điều gì xấu về Sabria. Cô Gampon, bà ta nói bằng sự đối đáp sắc sảo với vẻ tôn trọng miễn cưỡng, là người hết sức chuyên nghiệp. Tại thời điểm đó Ibrahim không chắc liệu đó có phải là điều tốt hay không. Ông cho Sabria nghỉ ba tháng. Một tuần sau đó cô quay lại hỏi họ có nhiệm vụ mới nào cho cô không. Ông nói không, cô cần nghỉ ngơi một thời gian và quay trở lại với cuộc sống của cô. Cô ngoan ngoãn rời văn phòng của ông, nhưng ba tháng sau cô quay lại, sẵn sàng cho nhiệm vụ mới và trông hoàn toàn vẫn như trước. Chính vì vậy ông giao cho cô một nhiệm vụ mới, và một nhiệm vụ khác sau đó nữa. Dường như với nhiệm vụ nào cô cũng bình an vô sự. Cô hoàn thành công việc với một sự trọn vẹn mà đến giờ vẫn khiến ông phải khiếp sợ. Cô đặt tất cả con người mình vào công việc đó. Mọi người đều tin tưởng cô. Cô có thể thuyết phục bất cứ ai rằng những mục đích của cô là hoàn toàn chân thành.

Ông gạt những hồ sơ đó trở lại chiếc túi nhựa và bắt gặp tờ đơn xin việc của Sabria cho cửa hàng quần áo ở Chamelle plaza. Nó vẫn nằm trên bàn làm việc của ông, đầy kín nét chữ phản trắc đó. Trong suốt khoảng thời gian họ làm việc cùng nhau, ông không hề biết gì về cô. Ông đối xử với cô theo một cung cách máy móc của một ông sếp có thể bị mất việc nếu không hành xử đúng mực với đồng nghiệp nữ. Chỉ là cho đến sau này, khi cô đã bỏ việc, ông mới bắt đầu hiểu cô thực sự là ai. Và lúc này ông suy nghĩ về con người đó một cách cương quyết. Sabria thật sẽ chỉ cử một người nào đó đóng giả là cô nếu việc đó phục vụ cho lợi ích chung. Nếu việc đó có nghĩa là giúp đỡ một ai đấy. Nhưng ông vẫn không thể giải thích được tai sao Sabria thật không nói gì với ông về chuyện này hết.

Khi Ibrahim dừng xe ở cuối con hẻm, đã là sau lễ cầu nguyện buổi chiều. Ông và Daher bước ra. Có sáu chiếc se cảnh sát đã vây kín hiện trường. Các nhân viên nghiệp vụ chặn đường hai tòa nhà ở cả hai hướng và đã giải tán những người khách bộ hành cuối cùng trên hai bên hè phố.

Ibrahim cố ép mình bước chậm lại một chút. Ông chỉ muốn bỏ chạy. Ông đi qua người quét đường, người đã phát hiện ra sự việc và nghe Daher báo cáo. “Thưa sếp, đây chính là gã…” trước khi vòng qua thùng chứa rác vả nhìn thấy dải băng ngăn cách hiện trường vụ án. Ông luồn qua dải băng đó rồi đi thẳng về phía đống vải nằm ngổn ngang trên hè phố. Đó là một tấm áo trùm phụ nữ. Trống không. Và ngay bên cạnh là một bàn tay bị chặt.

Nhân danh đức Alla nhân từ và độ lượng. Tâm trí ông quay cuồng với những lời cầu nguyện, ông nhắm nghiền mắt. Sự giảm nhẹ này quá ghê tởm đến mức đau đớn.

Ông luồn trở lại qua dải băng. “Anh nói đây là cái xác sao?”

“Nó không phải là một cái xác sao ạ?” Daher áy náy đứng bên cạnh ông, cố tỏ ra vẻ hữu dụng và nói với các nhân viên nghiệp vụ đứng gọn sang một bên của dải băng khoanh vùng hiện trường.

“Không, chỉ là một bàn tay.” Đáng lẽ không bao giờ nên rời khỏi Đội Điệp vụ mới phải. Ông bước vào dưới bóng râm của tấm bạt che trước một cửa hàng và ngồi xổm trên mặt đất, tựa đầu trên hai bàn tay.

“Bọn họ tìm thấy vật này ngay bên cạnh nó.” Daher đang đứng phía trên, chìa ra một chiếc xắc tay phụ nữ. Ibrahim cầm lấy nó và kiểm tra bên trong. Có một thẻ căn cước trong ví. Amina al-Fouad.

“Đảm bảo là đội pháp y có được vật này.” Ibrahim nói. Ông dường như không có tâm trí nào để xem xét việc giữa ban ngày mà phố Falasteen không hề có ô-tô hay khách mua sắm thì quá là kỳ quái. Ngoài cảnh sát mặc sắc phục và một vài chủ tiệm ra, người duy nhất đang ở khu vực này là một người quét đường gầy khẳng khiu. Ông ta tựa vào thùng rác với vẻ lo lắng và rối trí, không giống một người vừa phát hiện ra một bàn tay bị chặt đứt chút nào.

Ibrahim đứng lên tiến về phía người đàn ông đó. “Có phải nó đã ở trong thùng rác không?” Ông hỏi.

“Không phải.” Người quét đường đáp. “Nó ở đó. Chính nơi ông đang thấy lúc này ấy. Bàn tay của tên tội phạm nào đấy…” Ông ta vẩy tay và nhìn lên trời.

“Ông có thấy ai gần đó không?”

“Không thấy.”

Mất mười lăm phút để dựng lên cái mà nói thoáng ra là hiện trường vụ án. Hơn hai mươi sỹ quan cảnh sát đi đi lại lại. Khách mua sắm ào ra từ các cửa hàng và há hốc miệng nhìn. Abu-Musa đã đến và thông báo về bàn tay bị chặt. Vài phút sau đội pháp y đến với một vài ngạc nhiên: Katya bước xuống khỏi xe cùng bộ dụng cụ của mình và theo sau là Majdi tiến về phía hiện trường. Daher nhìn thấy cô và khựng lại vì sự ngạc nhiên nhưng không nói gì.

Tâm trí Irbrahim dần dần tỉnh táo hơn. Ông đã tưởng Sabria đang nằm đó.

Katya trông thất kinh khi cô quỳ gối xuống gần bàn tay.

“Gì vậy, cô Hijazi?” Ibrahim hỏi.

“Tôi đang phát hoảng khi hình dung đến việc có kẻ vứt bỏ thứ này ở đây.” Cô nói. “Sao không ai để ý nhỉ?”

Daher thở phì ra, như thể câu trả lời rõ ràng thế còn gì.

“Khu vực này không quá xa con đường.” Katya nói tiếp. “Và con đường này thường rất nhộn nhịp. Kẻ nào vứt bỏ nó ở đây thì hẳn chỉ mới đây thôi. Tôi chắc là không lâu sau nó đã bị phát hiện.”

Daher khịt khịt rồi quay đi, hoàn toàn không để ý đến nhận xét của Katya.

“Tôi không rõ.” Ibrahim nói. “Cô sẽ bất ngờ về những gì mà người ta thường không để ý. Chúng tôi đã cho người hỏi chuyện những chủ cửa hàng gần đây. Có lẽ có người đã thấy điều gì đấy.”

“Sẽ rất tốt nếu có được một mô tả về tên sát nhân.” Daher nói.

“Anh đã cho rằng vụ này có liên quan đến vụ giết người hàng loạt rồi sao?” Katya hỏi.

Daher trừng mắt nhìn cô. Sự chọc ngoáy khi trước của cô ta, tuy có khó chịu, song ít ra, còn hiểu được. Nhưng sao cô ta dám chỉ trích anh cơ chứ?

Katya không thèm để mắt đến anh ta, một kiểu giăng bẫy có tính toán. “Tên hung thủ giết người hàng loạt của chúng ta chưa bao giờ để lại một bàn tay trên phố cả.” Cô nói. “Hắn chôn những bàn tay ở một địa điểm bí mật.”

“Hiển nhiên đó chính là hắn ta!” Daher nói. “Hắn đang nói rằng chúng ta hãy biến đi! Đây chính là tiếng hét giận dữ từ gã đó.” Anh ta ra hiệu về phía bàn tay. “Hắn nói rằng hắn đang kiểm soát tình hình và hắn có thể làm bất cứ điều gì hắn muốn, và chúng ta sẽ chẳng làm gì ngăn hắn được. Tôi bất ngờ đấy. Thông điệp đấy quá là rõ rồi.”

Katya mở khóa chiếc túi vải len thô của mình bằng một cú kéo mạnh giận dữ. “Đây có thể là bàn tay của kẻ nào đó bị trừng phạt vì tội ăn trộm.”

Daher thở phì ra.

“Nó cũng có thể là một kiểu tội phạm bắt chước.” Katya nói.

“Hẳn rồi.” Daher nói. “Ngoại trừ việc không ai biết những cái xác được chôn ở sa mạc ngoại trừ chúng ta ra.”

“Tại sao lại không phải là một trong số chúng ta?” Katya hỏi.

Daher ha hả cười. “Đúng, tất nhiên rồi! Và tôi sẽ bầu chọn cô người Mỹ đó nhé. Cô ta đến đây cùng với đám thiên thần gác địa ngục của mình để trả thù những kẻ khủng bố.” Một sỹ quan cấp dưới nãy giờ lắng nghe mỉm cười uể oải.

“Sao vậy?” Daher hỏi.

“Không có gì.

“Cậu hiểu điều tôi sắp nói, phải vậy không?” Daher hỏi.

“Điều gì đó về Những thiên thần của Charlie (1) ấy à?” Viên sỹ quan cấp dưới nói.

(1) Loạt phim truyền hình nổi tiếng của Mỹ về ba nữ thám tử xinh đẹp làm việc cho nhà triệu phú Charlie. Ở đây nữ chuyên gia người Mỹ cùng tên là Charlie.

Daher cứng giọng. “Trời đất, sao cậu có thể đùa như vậy vào lúc này được nhỉ?”

“Đó không phải là đùa. Chỉ là những gì người ta đang bàn tán.”

“Tôi đã định nói rằng quy luật đầu tiên về những tên giết người hàng loạt - chính là điều Tiến sỹ Charlie đã đề cập - chúng là người Mỹ. Đàn ông da trắng ở độ tuổi ba mươi. Những gã có ngoại hình bình thường.”

“Có thể hắn không phải là người Mỹ chứ.” Katya vừa nói vừa đứng dậy.

“Ồ?”

“Người ta sẽ dễ dàng để ý đến một người Mỹ chứ.”

“Sẽ không đâu nếu hắn mặc áo trùm.” Daher phản kích.

Katya còn kịp nguýt anh ta một cái trước khi theo Majdi ra khỏi con hẻm. Ibrahim ra hiệu cho Daher ra ngoài. Anh ta đã bị làm bẽ mặt nhưng ít ra anh ta cũng cố nói được câu cuối cùng.

Dừng lại bên chiếc xe tải nhỏ, Katya quay sang Ibrahim. “Để tìm được mối liên hệ với vụ giết người hàng loạt,” cô nói, “chúng tôi sẽ phải tìm ra một số điều. Trước hết, liệu bàn tay này có phải bị chặt sau khi chết hay không. Tất cả bàn tay ở địa điểm chôn cất đều được cắt dời sau khi nạn nhân đã chết. Bàn tay này có vẻ là của một phụ nữ, nhưng chúng tôi cần phải chắc chắn. Hơn nữa, chúng tôi sẽ phải tìm ra thời điểm người phụ nữ này” - cô lục trong chiếc ví tìm tấm thẻ căn cước - “Amina al-Fouad bị mất tích. Hoặc liệu có phải cô ta đang mất tích hay không. Có thể đó là tay cô ta, nhưng điều này cũng cần phải kiểm chứng đã.”

Ibrahim định đáp lời thì Daher đã chen ngang với vẻ mà ông cảm giác như một cố gắng không đúng lúc để thu hút sự chú ý của ông.

“Sếp.” Anh ta nói. “Chúng tôi đã xem xét ở lãnh sự quán cái tên mà sếp yêu cầu. Tên người phụ nữ đó là gì nhỉ?”

“Mahal.” Katya nói.

Daher chột dạ và nhìn Ibrahim như thể muốn hỏi Làm sao cô ta biết nhỉ?

“Cô ấy đã đến khu Sitteen với tôi.” Ibrahim nói.

Daher không nói gì, nhưng Ibrahim thấy ánh nhìn của người bị phản bội ở anh ta. Tại sao ông lại đưa Katya mà không phải Daher tới Sitteen chứ?

“Không có phụ nữ nào mất tích tên là Mahal cả.” Daher nói với giọng cáu kỉnh.

Ibrahim không hề nhận thấy vẻ hả hê trên nét mặt Katya khi cô quay bước đi, nhưng dù sao ông cũng lo lắng về những cảm nghĩ giữa cô và Daher, và không biết những tổn thương cá nhân này sẽ đưa chuyện đi đến đâu.

“Chỉ đơn giản là ông ta không đủ năng lực.” Tiếng của Yasser Mu’tazz.

Ibrahim đang đứng ở ngoài hành lang bên ngoài cửa văn phòng của Chánh Riyadh, định sẽ báo cáo ngắn gọn với ông ta về hiện trường vụ án. Ông vừa vào thì nghe thấy giọng nói gay gắt và cảm giác bực tức của Mu’tazz khi nói về mình.

“Thanh tra Zahrani là một cán bộ có thâm niên hơn mười năm kinh nghiệm tại một trong những đơn vị hoạt động cam go nhất ở Jeddah này.” Riyadh đang bảo vệ ông. Quả là một bất ngờ. “Tôi biết là ông ấy chưa từng bao giờ nắm một vụ án giết người hàng loạt cả, nhưng tất cả những người khác ở cục này cũng vậy cả.”

“Tôi chỉ cho rằng ông ta chưa sẵn sàng cho vụ này.” Mu’tazz không hề nhẹ giọng chút nào hay thậm chí còn thêm vào từ thưa sếp một cách lịch sự theo phép xã giao. Rõ ràng ông ta đang vô cùng tức giận. Ibrahim hiểu vì sao. Mu’tazz có thâm niên hoạt động nhất ở Đội Trọng án và ông ta giàu kinh nghiệm hơn bất cứ ai, nhưng lại không hề có sự kết giao nào. Bố của ông ta là dân lao động nghèo ở Yemen đã dành dụm được chút tiền để mở cơ sở dệt may ở Jeddah - nhưng không nhiều đến mức được mời đến ở khu nahf của tầng lớp thượng lưu. Gia đình của Ibrahim, tuy không giàu có, nhưng là một gia đình Bedouin có quan hệ bạn bè ở các bộ ngành và đặc biệt là quan hệ thân tình với Hoàng thân Maddawi, một trong những người anh họ của nhà vua. Khi ông quyết định chuyển khỏi Đội Điệp vụ, ông lẽ ra phải làm một công việc phải đi lại rất nhiều nhưng chính Maddawi đã đảm bảo ông có được vị trí này.

“Tôi sẽ để mắt tới ông ấy.” Riyadh nói.

“Tôi đã thấy ông ta rời bãi đỗ xe hôm qua với một nữ kỹ thuật viên ở phòng thí nghiệm.” Ibrahim thấy ngực mình thắt lại.

“Tôi biết.” Riyadh nhẹ nhàng nói. Ngay từ lúc trước ông ta đã không thích cái ý tưởng đó rồi, và có vẻ lúc này còn không thích nó hơn. “Tôi cho phép việc đó vì cần thiết.”

“Bọn họ đi đâu vậy?”

“Lần theo một số đầu mối của vụ án mà buộc phải có mặt của phụ nữ.”

“Và ông ta không thể mang theo một nữ sỹ quan hay sao?”

“Không ai có mặt lúc đó cả.”

“Vậy thì một trong những nam sỹ quan?”

“Tôi cố tránh việc đưa nam sỹ quan đến phỏng vấn một phụ nữ.” Riyadh lạnh nhạt nói, “nhằm tránh những rắc rối với chính sách đạo đức của chúng ta.”

Có tiếng soạt soạt vì Riyadh đứng lên, chắc là mong muốn có thể chấm dứt cuộc hội thoại này. Ibrahim quay bước đi về phía cuối hành lang.

Chương 15

Dấu vân tay và phân tích DNA đã cho thấy bàn tay bị chặt đó là của Amina al-Fouad, người phụ nữ sở hữu chiếc xắc tay tìm được ở hiện trường. Họ cũng xác định bàn tay đó bị chặt khi bà còn sống.

Amina không phù hợp với các đặc điểm của những nạn nhân đã tìm được. Bà là một người nội trợ người Ả Rập Xê-út, ba mươi chín tuổi, sống ở quận Corniche với chồng và sáu đứa con. Bà chưa từng làm công việc gì bên ngoài gia đình, và mặc dù gia đình bà đủ giàu để có thể thuê hai người giúp việc nhưng Amina không hẳn là một người thích mua sắm, một thú vui mà hầu hết các phụ nữ kiểu như bà ưa thích. Bà chỉ rời nhà khi được sự cho phép rõ ràng của chồng mình.

“Bà ấy đáng ra không được phép tới trung tâm Jamjoom một mình.” Chồng bà giận giữ nhắc lại đến lần thứ năm.

Ibrahim ngồi đối diện với ông al-Fouad trong phòng khách của gia đình ông ta. Chiếc ghế sô pha trông như thể chưa được ai ngồi lên bao giờ. Mọi thứ mà ông thấy trong căn nhà này cho đến giờ khiến ông có cảm giác nó là gian triển lãm của Pottery Barn. Ông nghĩ về nhà mình, với những đồ đạc cũ rích và lối trang trí đã tồn tại cả thập kỉ nay, rồi tự thấy rằng ông thích như vậy hơn.

Al-Fouad dĩ nhiên là rất buồn. Ông ta đã thông báo vợ mình mất tích từ bảy ngày trước, vào đúng ngày bà vợ biến mất. Hiện tại ông ta đang phải day dứt với cú sốc và sự sửng sốt đến mức khó có thể giả tạo được. Ibrahim không đề cập gì tới vụ giết người hàng loạt. Bọn họ vẫn chưa tìm được mối liên hệ chắc chắn nào cả, nên cớ gì lại khiến ông chồng phải thêm lo lắng chứ? Điều khiến Ibrahim bận tâm là ý thức kiên tâm về danh dự của al-Fouad đang mỗi lúc một thêm khoa trương. Cậu con trai có tên Jamal kể với Daher rằng mẹ cậu ta đã tự bắt một chiếc tắc xi đến Jamjoon. Cậu ta nói đã nhận được thư thoại của mẹ, nhưng đã xóa nó. Jamal phải đến đón mẹ ở Jamjoon, nhưng không đến đúng giờ. Cậu ta ngờ là mẹ mình cũng đã rời Jamjoon bằng xe tắc xi.

“Ông al-Fouad.” Ibrahim nói. “Nhằm giúp chúng tôi hết khả năng có thể để tìm vợ ông, ông cần cho chúng tôi biết chính xác bà ấy đã ở đâu và làm gì. Trong những trường hợp tương tự thế này, cái chính là phải gạt bỏ vấn đề danh dự của ai đó sang bên, bởi số phận người thân yêu của ông đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc. Ông phải tin tưởng rằng chúng tôi sẽ hết sức kín đáo, và chúng tôi cũng sẽ phải tin tưởng là ông sẽ hoàn toàn nói sự thật.”

Al-Fouad vẫn không hiểu được vấn đề. Ông ta lắc đầu một cách ngoan cố và nhắc lại một lần nữa, “Đáng lẽ bà ấy không được đi…”

Để đảm bảo mình không phát điên lên, Ibrahim đành vờ ghi chép vào tập giấy của mình. Ông viết: Ông chồng là một con lừa khoa trương đần độn.

“Thôi được.” Ibrahim nói. Ông tức giận hơn mức đáng có và ông hiểu là mình đang mất dần đi tác phong chuyên nghiệp, nhưng ông không quan tâm. “Chúng tôi cần một bức ảnh của vợ ông.”

“Tôi sẽ nói với các ông những gì đã nói với cảnh sát: tôi không muốn mặt bà ấy chi chít trên các bản tin buổi tối.” al-Fouad lớn tiềng bằng giọng ngày càng chói tai.

Người đàn ông này là kiểu người gì vậy, một thứ lai giống của tộc người man dợ hay sao vậy? Làm sao ông ta có thể không làm bất cứ điều gì trong khả năng để đảm bảo người vợ đang mất tích được trở về nhà an toàn? Ibrahim thấy giận sôi người. Một kẻ xấu xa dơ dáy sẵn sàng để danh dự của mình lên trên mạng sống của vợ mình hay sao chứ?

“Đáng tiếc thay,” Ibrahim ngắt lời, “khả năng lớn nhất chúng tôi có thể tìm được vợ ông lúc này đòi hỏi việc công khai khuôn mặt của bà ấy đến càng nhiều người càng tốt. Sẽ có ai đó đã thấy bà ấy. Và người đó sẽ gọi cho chúng tôi. Và nhờ vào lòng tốt của những người dân Hồi giáo của chúng ta, có khả năng đưa bà ấy sống sót về nhà. Nhưng chỉ với điều kiện chúng tôi có được ảnh của bà ấy.”

Al-Fouad trông như thể ông ta sắp nhảy chồm qua chiếc ghế sô pha.

Những lời tiếp theo của Ibrahim còn được nói bằng sự giận giữ còn điên cuồng hơn cả sự tức giận của al-Fouad. “Chúng tôi cũng cần một bức ảnh chụp toàn thân của vợ ông nữa.”

“Sao kia?”

“Chúng tôi cần thấy toàn bộ dáng người của bà ấy, tốt nhất là trong chiếc áo trùm, bởi đôi khi phụ nữ ở những nơi công cộng, không để lộ mặt, chính vì vậy người ta thường để ý dáng người của họ. Tôi sẽ cho ông năm phút để quyết định về việc những bức ảnh đó hoặc chính tôi sẽ bắt giữ ông.”

Al-Fouad tái mặt và run lẩy bẩy. Ông ta nhổm dậy khỏi ghế sô pha và bước ra khỏi phòng.

Năm phút sau, Ibrahim đứng bên ngoài cửa nhà ai-Fouad đưa lại bức ảnh cho Daher.

“Chuyển chúng tới các cơ quan truyền thông.” Ông nói. “Không nhắc gì tới vụ giết người hàng loạt hết, chỉ nói rằng người phụ nữ này đang mất tích.”

“Ông không định làm rõ việc này với Riyadh sao?” Daher hỏi.

“Cứ làm đi.”

Daher trông có vẻ sợ sệt khi bước đi. Ibrahim cảm thấy run rẩy. Ông ngồi xuống bậc thềm cao nhất và cố gằng một cách tuyệt vọng để không nghĩ về Sabria và tất cả những gì đáng lý ra phải làm lúc này để tìm được cô, nhưng vô ích khi né tránh sự thật rằng sự giận dữ của ông không hoàn toàn vì al-Fouad.

Chương 16

Những ngày tiếp sau đó thật khó nhọc. Vụ giết người hàng loạt - hay vụ Thiên sứ, cái tên đã được dùng để nhắc đến nó - là ưu tiên hàng đầu. Điều này có nghĩa là mỗi một bằng chứng đáng kể nào, mỗi một cuộc phỏng vấn hay gặp mặt quan trọng nào, đều được những người đàn ông thực hiện. Và cũng có nghĩa là Katya, với nhiệm vụ tại phòng thí nghiệm ở tầng trên, phải làm những thứ việc lặt vặt nhất, mà một lần nữa không hề được biết chúng có liên quan gì tới vụ án đó. Nó chỉ hiểu như là “Cho tôi kết quả kiểm tra DNA của mẫu máu này” và “Cho tôi biết loại sợi vải này là loại nào” trong khi quần áo vẫn ở trong phòng thí nghiệm của Majdi ở tầng dưới, và những thi thể có mẫu máu cần kiểm tra lại vẫn nằm trong khu nhà lạnh chật cứng.

Cô có cảm giác mình là một người lính xây kim tự tháp vậy, một nô lệ đang đây hòn đá tảng khổng lổ băng qua sa mạc, không bao giờ được nhìn thấy công trình vĩ đại được dự định xây là như thế nào. Không ai có thời gian để đứng lại và giải thích mọi việc, nhất là những phụ nữ làm việc trong đội pháp y. Cô được nghe lại, không trục tiếp từ Majdi, người đã kiệt sức vì khối lượng công việc, rằng các sĩ quan đang điều tra tất cả các công ty taxi trong thành phố. Bọn họ đã nghĩ đến khả năng hung thủ là lái xe, nhưng lý do tại sao thì cô chỉ có thể phỏng đoán. Mối liên hệ mong manh duy nhất của cô tới những diễn tiến của vụ án chính là Ibrahim, nhưng ông lại quá bận bịu.

Hằng ngày cô dành ra một ít thời gian để xử lý những bằng chứng có được từ căn hộ của Sabria. Việc này khó hơn cô tưởng bởi cô phải ngụy tạo nó như thể một vụ án hư cấu. Trong khi đó cô vẫn phải làm việc một cách mẫn cán cho vụ Thiên sứ, vụ duy nhất tại thời điểm này mà bọn họ được phép tham gia, và chính vì vậy cô buộc phải dùng mánh khóe để che mắt về những hồ sơ không được ghi tên, cảnh giác để mắt tới máy móc trong phòng, và thậm chí trắng trợn nói dối các kỹ thuật viên khác trong phòng thí nghiệm đang có vẻ cảm thấy cô che giấu điểu gì đó. Qua những bằng chứng thu thập được ở căn hộ của Sabria, thì không có phát hiện gì đáng kể. Cô vẫn đang chờ các kết quả kiểm tra DNA mẫu máu cô lấy từ chiếc đinh ở hành lang.

Cô sẽ đánh đổi bất cứ điều gì để có lý do xuống phòng làm việc của Ibrahim, và đã có một hoặc hai lần cô đi qua, hy vọng sẽ tình cờ gặp ông nhưng chưa lần nào ông có ở đó. Cô không muốn gọi cho ông cho đến khi có được tin gì đấy. Katya trước đây có thể sẽ lấy hết dũng khí và bất kể thế nào cũng xuống tầng dưới, nhưng bây giờ có đến hai chướng ngại vật cản bước, đó là Daher, ngưòi luôn có phản ứng mỗi khi trông thấy cô và vụ án này là một vụ vô cùng quan trọng vẫn thu hút các đại diện của văn phòng thị trưởng và của bộ nữa. Trên hết, việc đính hôn với Nayir đã bắt đầu khiến cô hoảng hốt vì những thứ nhỏ nhặt nhất. Cô không chắc đó chỉ đơn giản là việc cô lo sợ Nayir sẽ phát hiện ra cô đã tiếp xúc với đàn ông lạ mặt nhiều đến mức nào, hay là sự lo lắng ngày càng lớn dần trong cô, một nỗi sợ hãi tự thân đối với toàn bộ tình huống này, kết hôn với một người đàn ông vẫn có gì đó bí hiểm, lại trong một hoàn cảnh không tốt chút nào.


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .